Gốm sứ Việt Nam thời nhà Lý

Trong triều đại nhà Lý (1010-1225) nền độc lập của Việt Nam được bảo vệ và tăng cường, văn hoá Việt Nam hồi sinh và phát triển. Giai đoạn này cũng chứng kiến chiều cao của Phật giáo ở Việt Nam. Một số lâu đài hoàng gia và các tháp Phật giáo lớn được xây dựng.

Đồ gốm Việt Nam phát triển mạnh mẽ, thể hiện sức sống và bản lĩnh trong khi tiếp nhận và kết hợp các yếu tố khác nhau từ văn hoá Trung Hoa, Chăm, Khmer và Ấn Độ. Các khảo cổ học đã cho thấy các trung tâm sản xuất gốm sứ thời kỳ này tại Hà Nội cũng như tại các tỉnh ngày nay là Hải Dương, Nam Định, Thanh Hóa và Ninh Bình. Đồ gốm được sử dụng phổ biến, từ tiền bản quyền cho dân gian. Một số loại tráng men xuất hiện với nhiều hình dạng khác nhau và các họa tiết trang trí. Nhiều sản phẩm đạt được chất lượng cao về kỹ thuật và thẩm mỹ.
Gốm thời Lý, với các bằng chứng từ Thế kỷ XX, nhiều người tin chắc là có và đẹp. Thế nhưng khi đi vào cụ thể thì rất khó vì chứng cứ còn quá ít. Nhiều đồ sứ thời Lý bị xếp lẫn với gốm sứ thời Trần. Vậy nên, khi viết chương gốm sứ thời Lý và gốm sứ thời Trần trong tập sách Lịch sử gốm sứ Việt Nam của Viện Khảo cổ học, tác giả bài viết này vẫn phải viết chung là gốm sứ Lý - Trần.
Bình hoa gốm

 Nhưng bây giờ thì khác. Cuộc khai quật tại địa điểm 18 Hoàng Diệu đã đem lại cả một hệ gốm men thời Lý với những đồ gốm thời Lý rất đẹp và hoàn hảo và các chứng cứ sản xuất tại chỗ (con kê, mảnh khuôn in, mảnh bao nung). Thời Lý đã sản xuất gốm men trắng, gốm men trắng ánh xanh, gốm men ngọc, men xanh lục, men vàng và hoa nâu. Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống (Trung Quốc) chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống.
 Nhưng nếu phân tích hệ thống từ những đồ gốm trắng Lý đích thực, thuần Việt qua đồ án trang trí hình rồng và hoa lá mà phong cách của nó giống hệt như những hình chạm khắc trên đá trong kiến trúc chùa, tháp thời Lý (Tháp Chương Sơn, chùa Phật Tích), chắc chắn người khó tính nhất cũng có thể thấy được đầy đủ và rõ ràng hơn về gốm men trắng Lý tại số 18 Hoàng Diệu đã tìm thấy mảnh bệ tháp sứ trắng trang trí hình rồng và mảnh bệ tháp sứ trang trí hình tiên nữ (Apsara) là minh chứng sinh động, cho thấy trình độ phát triển rất cao của công nghệ sản xuất đồ sứ trắng thời Lý.
 Bằng chứng thuyết phục khác là trong số đồ sứ trắng Lý tìm được trong Hoàng thành, có những loại như: bát, đĩa, nắp hộp, đài sen…bị méo hoặc cháy do quá lửa cho thấy nó được sản xuất tại chỗ. Suy đoán này được khẳng định rõ khi tại các hố ở khu D đã phát hiện được hàng nghìn mảnh bao nung gốm cùng nhiều loại con kê, dụng cụ thử men, đặc biệt là những đồ gốm lớn bị sống men, như chiếc đĩa lớn có đường kính miệng 39,5cm ở hố D5, cho thấy khả năng có những lò sản xuất gốm thời Lý ở đó, quanh khu vực Hoàng thành Thăng Long.
Thời Lý còn sản xuất loại gốm rất đẹp là gốm “ảnh thanh” (Gốm trắng xanh) (hay gốm trắng có ánh xanh). Trước đây chưa bao giờ có ai nghĩ là ở Việt Nam có sản xuất loại gốm này bởi độ tao nhã và tinh tế của sắc men trắng ánh xanh phủ lên trên những đồ án hoa văn hết sức mềm mại. Loại gốm này vốn là một dòng gốm rất cao cấp của Trung Quốc thời Tống - Nguyên. Nó cũng được xuất khẩu sang Nhật Bản, Việt Nam. Giờ đây chúng ta đã tìm thấy những mảnh bát đĩa ảnh thanh Việt Nam có loại hình và hoa văn như gốm trắng. Đó là đóng góp tuyệt vời của gốm Lý. Gốm men ngọc Lý trước đây cũng là một câu hỏi nữa cho giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Bây giờ, chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều gồm bát, đĩa trang trí hoa văn in hoa cúc dây như kiểu gốm Tống và nhóm bát, đĩa khắc chìm hoa sen mang phong cách Việt đặc trưng.
Men ngọc Lý phổ biến có màu xanh ngọc sắc đậm, xương gốm trắng đục, đanh mịn và có nhiều điểm khác biệt so với gốm thời Trần về kỹ thuật tạo chân đế. Bằng chứng sản xuất tại chỗ của loại gốm này cũng được khẳng định rõ qua những đồ gốm phế thải, đặc biệt là qua những mảnh khuôn in hoa cúc dây phát hiện được ở hố D6. Hoa văn trên khuôn in này có phong cách như hoa văn trên đĩa men ngọc tìm thấy trong lòng giếng thời Lý ở hố A10 và cả hai đều phản ánh sự ảnh hưởng khá đậm phong cách trang trí hoa cúc dây của gốm Tống có niên đại từ 1090 đến 1096. Do được tạo nổi và đan xen là các lỗ tròn trổ thủng, nên men dồn đọng không đều và tạo nên những mảng màu xanh đậm nhạt khác nhau trông rất sinh động. Sự tinh mỹ và cách thể hiện hình rồng trên nắp hộp này tương tự như hình rồng chạm trên đố đá tròn trang trí trên Tháp Chương Sơn (Nam Định) có niên đại Lý (1107). Ngoài ra, gốm men xanh lục còn được trang trí khá nhiều trên đầu ngói ống và các lá đề trang trí hình rồng, một số đĩa bát có in hình hoa cúc.
 Gốm men vàng Lý có sắc vàng tươi rực rỡ. Cùng với men lục, gốm men vàng Lý cũng đạt tới đỉnh cao mà ta không còn gặp lại sắc độ men như vậy ở các thời sau đó trên đồ gốm. Men vàng thời sau chủ yếu là thấy trên một số loại ngói được dùng trong kiến trúc Hoàng cung thường gọi là Hoàng lưu ly.
 Gốm hoa nâu Lý là sản phẩm độc đáo và đặc sắc nhất của gốm Việt Nam. Gốm hoa nâu   Lý trong Hoàng thành Thăng Long có chất lượng cao, đặc biệt là các loại vò, chậu, thạp trang trí hoa sen, dây lá, ở đây có các loại thạp lớn trang trí rồng .

 Bên cạnh đó còn có nhiều loại gốm nhỏ như nắp hộp, lọ nhỏ hay bát, đĩa trang trí rồng, hoa sen dây theo lối nền tô men nâu, hoa văn men trắng với đường nét chạm - khắc uốn lượn mềm mại, tinh xảo. Có thể thấy rằng Thăng Long thời Lý là nơi sản xuất đồ gốm hoa nâu đầu tiên và được dùng trước hết trong Hoàng cung.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến